Tuyệt chiêu PR xà bông cô Ba đang ngưỡng mộ của “Tỷ phú xà bông” Trương Văn Bền

Tuyệt chiêu PR xà bông cô Ba đang ngưỡng mộ của “Tỷ phú xà bông” Trương Văn Bền

Những năm đầu thế kỷ XX, xà bông cô Ba nổi lên như một biểu tượng thương hiệu Việt giữa rất nhiều thương hiệu nước ngoài được du nhập vào Việt Nam. Bởi đó là sự sáng tạo, một sản phẩm thành công của doanh nhân nổi tiếng – ông Trương Văn Bền.

Nói về cơ duyên giữa ông Trương Văn Bền với xà bông cô Ba, ông Trương Khắc Cẩn- con trai ông Bền cho hay: “Vào năm 1930, sau khi lăn lộn trong các hoạt động kinh doanh lúc bấy giờ, ba tôi muốn hoạt động trong một ngành có tính cách phục vụ đại chúng. Có hai loại sản phẩm mà hầu như mọi người phải dùng: giấy và xà bông, thế là ba tôi chọn xà bông”.

Tuyệt chiêu PR xà bông cô Ba
Tuyệt chiêu PR xà bông cô Ba

Doanh nhân Trương Văn Bền (1883-1956) được sinh ra tại Chợ Lớn (Sài Gòn) trong một gia đình có truyền thống làm nghề thủ công. Xuất thân từ một gia đình khá giả, ông được hưởng nền giáo dục tân tiến của Pháp thời bấy giờ tại các trường Pháp như École Municipale française de Cholon, và sau đó là trường quý tộc Collège Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn được dạy kèm riêng các môn tiếng Việt và tiếng Hoa.

Trương Văn Bền bắt đầu sự nghiệp buôn bán vào năm 1901, khi ông mở một cửa tiệm tạp hóa nhỏ gần một con kênh ở số 40 quai du Cambodge (đường Kim Biên), Chợ Lớn. Ông dần mở rộng việc làm ăn bằng cách mua sỉ từ các thương gia Trung Quốc rồi bán lại cho các tiệm tạp hóa lẻ để ăn lời khoản chênh lệch. Nhờ đó, ông tích lũy được một khoản nhỏ.

Năm 1905, từ số vốn đã tích góp, ông đầu tư mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Một năm sau, ông mở thêm nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và Rạch Các. Tuy nhiên, ông sớm nhận ra tiềm năng của ngành sản xuất dầu và tập trung mở thêm một cơ sở sản xuất ở Chợ Lớn, mang tên “Huilerie de Cholon,” với nhà máy ở Thủ Đức và kho bãi đặt tại 40-49 quai du Cambodge. Xưởng này của ông Bền kinh doanh thành công và trở thành một trong những doanh nghiệp có tiếng trong thành phố.

Mặc dù có nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế đất nước và tham gia vào nhiều ngành nghề kinh doanh, nhưng sản phẩm thực sự làm nên tên tuổi lẫy lừng của doanh nhân Trường Văn Bền trong giới thương nhân Sài Gòn là khi ông quyết định đầu tư sản xuất xà bông vào năm 1932. Đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời làm doanh nhân của ông.

TRƯƠNG VĂN BỀN TẠO NÊN TÊN TUỔI VỚI THƯƠNG HIỆU ‘XÀ BÔNG CÔ BA’

Xà bông cô Ba lần đầu tiên được sản xuất trong một căn phố nhỏ theo lối tiểu công nghệ. Để có đủ nguyên liệu sản xuất, ông Trương Văn Bền đã xây dựng hợp tác xã có xã viên là những chủ vườn dừa ở Bến Tre và Mỹ Tho.

Lúc bấy giờ, thị trường xà bông ở Việt Nam chủ yếu là hàng Pháp nhập vào; gọi chung là xà bông Marseille. Xà bông trong nước rất ít, chỉ có một số cơ sở sản xuất nhỏ lẻ chiếm thị phần không đáng kể. Phần lớn họ sản xuất xà bông “đá” có mùi khó chịu, chỉ để rửa tay hay giặt giũ cho giới lao động. Ít ai dám mạo hiểm đầu tư vào mảng xà bông thơm để tắm gội.

Nhận thấy “vị trí khuyết” này của thị trường, với đầu óc kinh doanh nhạy bén, doanh nhân Trương Văn Bền đã nhảy vào sản xuất mặt hàng xà bông.

Hãng xà bông của ông tọa lạc trên đường Cambodge. Công ty của ông gọi là Trương Văn Bền và các con – Dầu và Xà bông Việt Nam (Truong Van Ben & fils – Huilerie et Savonnerie Vietnam).

Xưởng dầu của ông ở Chợ Lớn mỗi tháng sản xuất khoảng 1.500 tấn dầu dừa và Hãng xà bông Trương Văn Bền sản xuất khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine trong năm 1943, vào thời kỳ khó khăn ở nhiều nước do Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là công ty quan trọng nhất sản xuất dầu và xà bông trên toàn cõi Đông Dương.

Sản phẩm tung ra thị trường, với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, lại giá rẻ, sản phẩm xà bông của ông Trương Văn Bền đã đánh bại được xà bông nhập cảng và thâu tóm được thị trường toàn Đông Dương, xuất sang cả Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo (Thái Bình Dương).

Để có được thành công này, tác giả Nguyễn Đức Hiệp – chủ nhân cuốn sách “Sài Gòn Chợ Lớn ký ức đô thị và con người”, cho biết, Trương Văn Bền luôn tìm hiểu, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.

Để làm ra xà bông chất lượng, ông đã gửi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một người Pháp làm ở nhà máy xà bông Mazet. Lúc đó, ở Sài Gòn có hai nhà máy xà bông Pháp do các ông Mazet và Boris làm chủ.

Xà bông là sản phẩm mang lại cho ông nhiều tiếng tăm và tiếp cận nhiều người nhất. Tên của Trương Văn Bền gắn liền với xà bông Việt Nam, xà bông Cô Ba.

Nổi tiếng vì mùi thơm là một lí do. Nhưng để thực sự chiếm được ” ngôi hậu” trong thời điểm lúc bấy giờ doanh nhân Trương Văn Bền đã có một “chiếc lược” quảng cáo bất ngờ và hữu hiệu, đưa nhãn hiệu Xà bông này lan rộng nhanh chóng ở miền Nam lúc đó. Vào thời điểm mà quảng cáo vẫn là một hình thức chưa phổ biến ở nước ta thì ông Trương Văn Bền thực sự đã đi đầu, trở thành một “chiến lược gia truyền thông” mà đến bây giờ những bài học từ cách làm của ông vẫn còn giá trị.

CHIẾN LƯỢC QUẢNG CÁO ĐI TRƯỚC THỜI ĐẠI CỦA DOANH NHÂN TRƯƠNG VĂN BỀN

Đầu tiên, ông vận động cho việc dùng hàng nội hóa. Các quảng cáo của ông thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam” để đánh vào lòng yêu nước, tự hào dân tộc.

Trong suốt thời gian dài, hầu hết báo chí thời đó đều có đăng mục quảng cáo “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của hãng Xà bông Trương Văn Bền.

Trong các cuộc triễn lãm được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sài Gòn, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết kế ấn tượng nhất với mô hình một cục xà bông to hơn gian hàng gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem.

Chưa dừng lại ở đó, tại các gian hàng còn có bán xà bông gọi là chào hàng với giá rẻ hơn bên ngoài đến 25%.

Không chỉ quảng cáo trên áp phích, trên xe điện, xe hơi, trên áo cầu thủ bóng đá. Ông đưa cả vào các thể loại âm nhạc rất được ưa chuộng như ca vọng cổ, tuồng cải lương…

Ông Bền kể lại trong hồi ký: “Tôi phải kiếm cách ép mấy hàng tạp hóa mua xà bông Việt Nam về bán. Tiệm tạp hóa hầu hết chỉ mua các món đồ thông dụng, đem lại cho họ mối lợi hằng ngày.

Tôi bèn huy động một tốp người cứ lần lượt hằng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không. Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác. Trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói một câu: “Sao không mua xà bông Việt Nam về bán? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều.

Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý. Phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, mua thử về bán”.

Số xà bông bán qua hình thức này không chỉ nhiều mà còn khiến bà con ghi nhớ thương hiệu.

Sự thành công của xà bông Cô Ba khiến nhiều người khác cũng lao vào kinh doanh mặt hàng, như bà đốc phủ Mầu ra xà bông Con Cọp, ông Balet ra xà bông Nam-Kỳ cũng có biểu tượng người đàn bà Việt Nam như xà bông Cô Ba, ông Nguyễn Phú Hữu ra xà bông “3 sao” ở Cần Thơ… Nhưng tất cả họ đều không địch nổi.

Sau năm 1954, không còn xà bông Pháp, xà bông Cô Ba cạnh tranh với xà bông Mỹ, trong đó đáng kể nhất là xà bông Lifebuoy. Bởi vì đây là loại xà bông dành cho quân đội Mỹ, còn gọi là hàng PX (Post Exchange) bán miễn thuế cho lính Mỹ nên giá rất rẻ, lính Mỹ mua tuồn ra chợ đen, tương tự là xà bông quân tiếp vụ đóng trong hòm gỗ…

Cách làm đi trước thời đại của doanh nhân Trương Văn Bền đã giúp xà bông cô Ba vươn lên thành “thương hiệu quốc dân”.

Ngoài ra còn có ông Trương Văn Khôi, chủ nhân của nhãn hiệu bột giặt Viso, cũng là một thế lực mạnh nhưng xà bông Cô Ba vẫn giữ được thị phần lớn.

Sau năm 1975, Công ty Trương Văn Bền và các con trở thành Nhà máy hợp doanh xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ.

Đến năm 1995 trở thành Công ty Phương Đông thuộc Bộ Công nghiệp liên doanh với Tập đoàn Procter & Gamble, thương hiệu xà bông Cô Ba được sử dụng lại nhưng không bán được nhiều bởi hơn vài chục năm đứt quãng đủ để một thương hiệu mai một trong tiềm thức người tiêu dùng.

TẠI SAO NGƯỜI VIỆT THƯỜNG THẤT BẠI?

Trong bài báo phóng viên hỏi tại sao người Việt thường thất bại trong thương mại và kỹnghệ. Không cần suy nghĩ lâu, ông Trương Văn Bền trả lời: “Tại người mình ưa bắt cá hai tay, ưa làm nhiều việc quá. Việc này chưa xong, họ đã xoay qua làm việc khác, thành thử không việc nào vẹn toàn. Rốt cuộc hỏng cả.

Lý do thứ nhì là do không thông thạo việc nên thất bại. Bất cứ việc gì, trước khi làm mình phải biết rõ việc ấy. Phải học, phải nghiên cứu kỹ càng mới được. Người Tây trước khi làm việc gì họ cũng học trước cả.

Cho đến một việc đứng bán hàng, ta cho là tầm thường và tưởng ai ai cũng có thể làm được. Nhưng đối với họ đó là việc quan trọng cũng có sách có trường dạy hẳn hoi, dạy từ cách tiếp khách, khoe hàng làm sao cho người khách mua rồi thì còn trở lại.

Người mình có một cái rất bậy là chỉ thấy cái lợi trước mắt, chỉ cốt làm sao bán được món hàng lúc ấy mà thôi, không chịu hiểu rằng người khách thấy mình bị tiếp đãi không được như ý, hoặc bị lừa gạt mua nhầm hàng xấu, về sau không thèm trở lại nữa, vì vậy mà ế ẩm. Như tôi đây cơ sở đã vững vàng rồi mà ngày nào cũng tìm sách đọc thêm.”

Năm 1918, ông Bền mở xưởng dầu thứ hai. Xưởng này sản xuất “đa hệ” từ dầu nấu ăn đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ. Nhận thấy tiềm năng dừa ở miền Nam rất lớn nên ông Bền đầu tư vào sản xuất dầu dừa và chính từ dầu dừa đã gợi ý cho ông đi đến bước tiếp theo là sản xuất xà bông.

Vào thời điểm đó, thị trường xà bông ở Việt Nam chủ yếu là hàng Pháp nhập vào, gọi chung là xà bông Marseille. Xà bông trong nước rất ít, chỉ có một số cơ sở sản xuất nhỏ lẻ chiếm thị phần không đáng kể, phần lớn họ sản xuất xà bông “đá” có mùi khó chịu, chỉ để rửa tay hay giặt giũ cho giới lao động, ít ai dám mạo hiểm đầu tư vào mảng xà bông thơm để tắm gội. Ông Bền đã quyết tâm đầu tư vào mảng này để cạnh tranh với hàng ngoại nhập.

Trong hồi ký của mình, ông Bền kể lại: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho xà bông mà chưa kiếm ra. Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học dẫn đầu nổi lên nhiều chỗ và thất bại.

Đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to “Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới. Tôi chụp lấy vụ này, lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông do người Việt sản xuất để nêu lòng ái quốc đang bùng lên: Xà bông của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.

LÀM THƯƠNG HIỆU TỪ THỜI CÒN CHƯA BIẾT MARKETING LÀ GÌ

Xà bông Cô Ba có công thức rất đơn giản: 72% là dầu dừa, còn lại là xút và hương liệu. Tất nhiên ông có bí quyết để mua được loại hương liệu tạo mùi thơm lâu bền nhưng chính quảng cáo mới là lý do lớn nhất khiến nhãn hiệu xà bông này lan rộng nhanh chóng ở miền Nam lúc đó.

1. ĐÁNH VÀO LÒNG YÊU NƯỚC

Đầu tiên, ông vận động cho việc dùng hàng nội hóa. Các quảng cáo của ông thường ghi dòng chữ “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam” để đánh vào lòng yêu nước, tự hào dân tộc.

Ông phủ dày đặc các quảng cáo trên áp phích, trên xe điện, xe hơi, trên áo đấu cầu thủ bóng đá, ông đưa cả vào các thể loại âm nhạc rất được ưa chuộng như ca vọng cổ, tuồng cải lương…

2. DẪU THÀNH BẠI CŨNG LÀ “MƯU SỰ TẠI NHÂN”

Một chiêu khác cũng được ông Bền kể lại trong hồi ký: “Tôi phải kiếm cách ép mấy hàng tạp hóa mua xà bông Việt Nam về bán. Tiệm tạp hóa hầu hết chỉ mua các món đồ thông dụng, đem lại cho họ mối lợi hằng ngày.

Tôi bèn huy động một tốp người cứ lần lượt hằng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không. Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu: “Sao không mua xà bông Việt Nam về bán? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều”. Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý, phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, mua thử về bán”

3. TẬN DỤNG LỢI THẾ ĐẠI DƯƠNG XANH

Khi được hỏi về bí quyết thành công, ông Bền nói: “Ở xứ mình, trong giới kỹ nghệ còn trống chỗ nhiều, muốn lập kỹ nghệ nào cũng dễ lắm. Không cần phải có vốn nhiều. Vốn ít, càng tốt hơn.

Ban đầu không nên làm rình rang, đã vô ích mà còn có hại, cứ khởi sự nho nhỏ, đi lần lần từng bước. Cần nhất phải có chí nhẫn nại. Như tôi đây bị thất bại đã mấy phen, nhưng có thất bại mới có thêm kinh nghiệm.

Thứ nhất là bền chí. Thứ hai là phải có sức khỏe, làm gì thì làm mỗi buổi sáng tôi cũng dậy sớm tập nửa giờ thể dục. Không có sức khỏe, hay đau ốm thì dẫu tài giỏi đến bực nào cũng thành vô dụng. Tóm lại sức khỏe, sự học hỏi, sự bền chí là những điều kiện của sự thành công”.

Nguồn: Sưu tầm

————————
MBA Đường phố – Vườn ươm Hỗ trợ Khởi nghiệp Toàn diện
Website: www.mbaduongpho.com
Hotline: 0886 924 688
Email: hotro@mbaduongpho.com
Address: GENESIS Housing, 307 Giảng Võ, Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội

#MBA_Đường_phố #MBA #Khởi_nghiệp #Startups #SMEs #Entrepreneur #Business_Plan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *